Review sách Trí tuệ xúc cảm – ATPbook.vn
Một số lúc chúng ta đã đồng nhất trí tuệ với chỉ số IQ. Đó là phương thức hiểu phiến diện bởi chúng ta chỉ chú trọng tới trí tuệ lí trí mà quên mất rằng các xúc cảm cũng là một dạng trí tuệ vô cùng quan trọng để con người mang đầy quá đủ tính người cũng như đủ nội lực sự phát triển trong cuộc sống. Những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, ở nhiều nước phương Tây, người xem nói nhiều tới các xúc cảm của con người và sự giáo dục xúc cảm cho người xung quanh, đặc biệt là các lớp trẻ. Các nhà tâm lí học ngày càng nghiên cứu cao vai trò của cảm xúc và ảnh hưởng của nó đến đời sống con người. Nghệ thuật kiểm soát cảm xúc và định hình cho nó một cách thức đúng đắn được gọi là “Trí tuệ xúc cảm”.
Review sách Trí tuệ xúc cảm
Kể từ khi cuốn sách đi đầu của Daniel Goleman “Trí tuệ xúc cảm” viết về vấn đề này năm 1995 thì trí tuệ xúc cảm trở thành một trong những thuật ngữ nóng bỏng nhất trong xã hội Mỹ, Daniel Goleman vừa mới trình bày vấn đề này rất đầy quá đủ, rõ ràng và có sức thuyết phục. Đây là một tư liệu k thể bỏ qua khi chúng ta nói đến vấn đề dạy bảo trí tuệ xúc cảm.
Trên cơ sở phân tích về trí tuệ đột phá căn bản và hành vi, Goleman đang chỉ ra những nguyên nhân ảnh hưởng khiến cho những người có chỉ số IQ cao một số lúc trở nên lúng túng trong công việc trong khi những người IQ thấp lại thực hiện khả thi đến kinh ngạc. Những thành phần này bao gồm cả sự tự ý thức, tự rèn luyện kỷ luật và sự thấu cảm, bổ sung một cách thức khác để trở nên thông minh hơn – ông gọi đó là “Trí tuệ xúc cảm”. Trong khi thời thơ ấu là một giai đoạn quan trọng cốt yếu của thành đạt thì trí tuệ xúc cảm lại k được định hình chắc chắn ngay khi sinh ra. Nó có thể được nuôi dưỡng, tăng cường và lớn mạnh trong suốt thời kỳ trưởng thành, với những lợi ích tức thì cho sức khỏe, các mối liên kết và công việc của chúng ta.
Trí tuệ xúc cảm – làm thế nào để biến những xúc cảm của bạn thành trí tuệ như là cẩm nang hướng dẫn trong chuyến du hành tới xứ sở của những xúc cảm nhằm làm sáng rõ hơn một số thời điểm gây rườm rà trong cuộc đời mỗi người và thế giới xung quanh chúng ta. Kết thúc chuyến du hành này, chúng ta sẽ hiểu lý do trí tuệ đủ sức hòa hợp với xúc cảm và hòa hợp như thế nào. Sự hiểu biết ấy là rất có lợi, chỉ riêng việc quan sát thế giới tình cảm cũng đã có một hiệu ứng như trong vật lý lượng tử: nó làm biến đổi những gì được quan sát, mang tới một phương thức nhìn mới về một điều kỳ diệu có thể giúp chúng ta và cả con cháu chúng ta thay đổi được tương lai của mình.
Trích đoạn sách hay
Khi Trí Tuệ Thiếu Minh Mẫn
David Pologruto, giáo viên vật lý của trường trung học ở Floride, bị một trong những học sinh xuất sắc nhất của ông chém. Sự thật là:
Jason H, sinh viên năm thứ 2 của trường trung học Coral Springs, Florida, muốn theo nơi y. Anh ta mơ ước tới Harvard. Nhưng trong một lần kiểm tra, Pologruto cho anh ta điểm kém làm ảnh hưởng đến việc xin học. Jason đã cầm dao chém vào cổ giáo viên của mình trong phòng thí nghiệm vật lý.
Toà án xử trắng án cho Jason vì cho rằng anh ta bị một cơn điên bất thường (loạn tâm nhất thời). Jason khai rằng mình định tự sát trước Pologruto sau khi nói với ông ta chuyện ông ta đang cho anh điểm xấu.
Sau khi được nhận vào học một trường trung học tư thục, hai năm sau, Jason đỗ tú tài trong tốp đầu của lớp.
tại sao một người thông minh lại đủ sức phạm sai lầm như thế? Câu trả lời là: trí tuệ lý thuyết không liên quan nhiều tới đời sống xúc cảm. Những người thông minh nhất có khi lại phó mặc cho những đam mê và xung năng của mình, và k phải cứ có IQ cao là tránh được điều đó.
Trái với quan niệm truyền thống, một trong những điều bí ẩn của tâm lý học là cho rằng bằng cấp, IQ và các kỳ thi không phải là những thứ láy làm để tiên đoán hiển nhiên ai sẽ sự phát triển trong cuộc đời.
Trong những nhân tố quyết định dẫn tới thành công, IQ chiếm nhiều nhất là 20%. Như một nhà quan sát nhận xét: “Trong đa số trường hợp, vị trí hiển nhiên mà cá nhân có được trong xã hội được quy định bởi những nhân tố khác, chẳng hạn như nguồn gốc xuất thân hoặc cơ may.”
Ngay cả Richard Herrnstein và Charles Murray, tác giả cuốn The Bell Curve gán cho IQ tầm cần kíp hàng đầu, cũng nhận xét: “Một sinh viên năm thứ nhất k nên mơ trở thành nhà toán học, nếu chỉ đạt 8/2O điểm môn này trong kỳ thi. Nhưng nếu anh ta muốn trở thành nhà kinh doanh hay phó chủ tịch nước thì chẳng có tại sao gì để nản lòng cả. (…) Về kiểu thành đạt này, hiệu quả đạt được trong các kỳ thi chẳng cần thiết gì so với đặc trưng nhân phương thức khác của anh ta.”
“Những đặc trưng khác” ấy là cái được chúng ta bàn tới ở đây, đó là năng lực tự thúc đẩy good kiên trì trong khó khăn, làm chủ những xung năng của mình và nhẫn nại mong muốn sự thỏa mãn ham muốn, đó là mức độ điều hòa tâm lý và k để suy nghĩ của mình bị sự buồn rầu chi phối, đó là cấp độ đồng cảm và hy vọng. Trái với IQ, trí tuệ xúc cảm là khái niệm còn khá mới. Hiện nay, vẫn chưa có ai khẳng định rằng nó tính toán được đến đâu sự sự phát triển tốt thất bại của mỗi cá nhân. Nhưng những dữ kiện hiện có cho thấy ảnh hưởng của nó cần kíp, thậm chí còn lớn hơn IQ. Và trong khi một số người cho rằng IQ hoàn toàn k thể thay đổi được, thì như chúng ta thấy, trẻ em đủ sức đạt được những năng lực xúc cảm chủ yếu và đủ sức cải thiện chúng miễn là ta chịu khó giúp chúng.
Trí tuệ xúc cảm và số phận
Tôi có một người bạn từng đạt được hiệu quả tốt nhất trong kì thi đại học. Nhưng anh ta lại thường bỏ học. Do đó, phải mất 10 năm anh ta mới có được tấm bằng.
IQ thường k giải thích được sự khác nhau về số phận các cá nhân mà lúc đầu có vẻ giống nhau. Khi nhìn lại sự tiến thân của 90 sinh viên ở Harvard đầu những năm 1940, người ta thấy rằng những người giành được kết quả tốt nhất trong các kỳ thi lại k thành công bằng những mọi người về tiền lương và vị trí nghề nghiệp. Hơn nữa, họ cũng k hạnh phúc hơn trong đời sống riêng tư.
Một gợi ý khác được lấy từ một đánh giá cho thấy những người đứng trên đỉnh nhì tại nhiều trường đại học ở Illinois năm 1981, khi đến 30 tuổi, họ cũng không thành công nhiều hơn những bạn học trung bình trước đây. Mười năm sau đại học, chỉ 1/4 người có mặt trong tốp dẫn đầu nghề nghiệp của họ, thậm chí nhiều người đang xoay xở trong cuộc sống kém hơn rất nhiều những người xung quanh.
Karen Arnold, giảng viên trường Đại học Boston, một trong những người tham gia nghiên cứu này, giải thích: “Tôi tưởng rằng chúng tôi gặp toàn những học trò giỏi. Nhưng, sau khi học xong, những người học giỏi cũng phải chiến đấu như những người xung quanh. Việc một cá nhân nằm trong số những người học giỏi nhất lớp chỉ cho thấy anh ta đặc biệt có cấp độ đạt điểm good chứ k nói lên điều gì về năng lực phản ứng của anh ta trước thăng trầm của cuộc đời”.
Vấn đề là: trí tuệ lý thuyết k sẵn sàng cho cá nhân đương đầu với những thử thách của cuộc sống và nắm bắt những cơ hội hiện ra. Nhưng ngay cả chỉ số IQ cao cũng k bảo đảm cho sự thịnh vượng, cho uy tín cũng như hạnh phúc. Nhà trường và nền kiến thức của chúng ta chỉ tập trung đến các năng lực trừu tượng mà bỏ quên trí tuệ xúc cảm, nói cách khác, bỏ quên toàn bộ những nét tính cách thức có ảnh hưởng rất lớn tới số phận của chúng ta. Giống như toán good văn, đời sống xúc cảm là lĩnh vực trong đó người xem đủ sức chứng tỏ mình có tài năng nhiều hơn hay ít hơn, và nó đòi hỏi sự am hiểu nhất định. Và sự thành thạo của cá nhân về mặt này cho biết tại sao về sau anh ta sẽ sự phát triển, trong khi một người xung quanh, thông minh tương đương, lại k thành đạt. Năng lực xúc cảm là một siêu năng lực (meta-ability); nó quyết định việc chúng ta khai thác thế mạnh của mình, kể cả trí tuệ kết quả như thế nào.
Đương nhiên có rất nhiều con đường sự phát triển, cũng như nhiều lĩnh vực trong đó những năng lực khác của chúng ta được đền bù. Trong xã hội dựa trên sự tăng trưởng tri thức này, đó chính là trường hợp thành thạo về kỹ thuật. Nhưng rõ ràng, những người có thói quen ý thức kích thích hiệu quả, hiểu biết tình cảm, nắm được và làm chủ chúng, đoán được tình cảm của người khác và hòa hợp với họ tốt, thì sẽ có lợi thế trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, trong tình yêu cũng như công việc.
Ngược lại, những người k kiểm soát được đời sống tình cảm của mình thì chịu những xung đột nội tâm và phá bỏ mất năng lực quan tâm và ý thức sáng rõ của họ.